Tin tức

Các làng nghề truyền thống ở Quảng Bình: Nét đẹp văn hóa độc đáo

Quảng Bình tự hào là vùng đất bảo tồn và phát triển những làng nghề truyền thống độc đáo. Những làng nghề này là những địa điểm du lịch truyền thống hấp dẫn, đồng thời, là nơi giữ gìn và truyền bá những giá trị văn hóa đặc sắc của đất nước. Do đó, nếu có thời gian, hãy khám phá các làng nghề truyền thống ở Quảng Bình đề tìm hiểu về những bí quyết và kỹ thuật truyền thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ, hoặc mua về làm quà những sản phẩm chất lượng!

Vì sao du khách nên khám phá các làng nghề truyền thống ở Quảng Bình?

Du khách nên thăm các làng nghề ở Quảng Bình để trải nghiệm và tìm hiểu văn hóa, truyền thống độc đáo của đất nước, đồng thời đóng góp vào việc bảo tồn và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương.

Bảo tồn và tôn vinh văn hóa dân tộc: Các làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ và phát triển những nghề thủ công lâu đời của dân tộc. Việc thăm các làng nghề ở Quảng Bình giúp bảo tồn và tôn vinh văn hóa, nghệ thuật, tìm hiểu về di sản văn hóa Quảng Bình và bản sắc đặc trưng của dân tộc tại Việt Nam.

Trải nghiệm văn hóa và học hỏi kỹ năng truyền thống: Khám phá các làng nghề truyền thống cung cấp cơ hội để tiếp xúc và trải nghiệm trực tiếp với các nghề thủ công truyền thống như gốm, làm nón, dệt lụa, chế tác gỗ và nhiều nghề khác. Du khách có thể học hỏi kỹ năng truyền thống từ những người thợ lành nghề và trải nghiệm quá trình sáng tạo ra các sản phẩm.

Hòa mình vào cuộc sống của cộng đồng địa phương: Tham quan các làng nghề truyền thống là cơ hội để tương tác với cư dân địa phương, hiểu về cuộc sống, phong cách sống và niềm đam mê trong công việc của họ hoặc được cung cấp nhiều kiến thức về di sản văn hóa Quảng Bình. Từ đó, bạn sẽ có cơ hội giao lưu, học hỏi nhiều kiến thức về những phong tục, tập quán hay những nét đặc sắc trong nền văn hóa bản địa.

Bên cạnh việc tham quan và chiêm ngưỡng kỳ quan thiên nhiên Quảng Bình, việc khám phá các làng nghề truyền thống giúp du khách trải nghiệm văn hóa độc đáo, từ đó, góp phần bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Các làng nghề truyền thống ở Quảng Bình

Không chỉ là một trải nghiệm du lịch thông thường, việc khám phá các làng nghề Quảng Bình còn là cơ hội để bạn tìm hiểu và trân quý những giá trị văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm sự đa dạng và phong phú của văn hóa dân tộc tại vùng đất Quảng Bình tại các làng nghề truyền thống sau:

Làng chiếu cói An Xá (Lệ Thủy)

Làng chiếu cói An Xá (Lệ Thủy) là một làng nghề Quảng Bình truyền thống nổi tiếng với sản xuất chiếu cói tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Du khách có thể di chuyển khoảng 40km trong 50 phút từ thành phố Đồng Hới. Nghề dệt chiếu cói tại làng An Xá được cho là đã có từ khoảng hơn 600 năm về trước. Đây là một nghề truyền thống được lưu giữ và phát triển qua nhiều thế hệ người dân trong làng. Qua biết bao thăng trầm, làng An Xá đã vượt qua những khó khăn, tiếp tục tồn tại và được gìn giữ cho đến ngày hôm nay.

Nếu đến thăm các làng nghề ở Quảng Bình, du khách sẽ được tận mắt trải nghiệm nghề sản xuất chiếu cói tại An Xá theo quy trình sản xuất truyền thống. Người thợ sẽ thu thập nguyên liệu chính là lá cói, sau đó tách lấy lõi giữa của lá để sử dụng. Mùa thu hoạch cói là thời điểm quan trọng trong năm, không chỉ về khía cạnh kinh tế mà còn về tinh thần. Những chiếc chiếu thơm mùi cói khô là tượng trưng cho sự kết nối giữa người và đất, giữa quá khứ và hiện tại. Lõi giữa của lá cói được chà lên và xử lý để loại bỏ chất gai. Sau đó, lõi cói được nhuộm màu sắc bằng các chất nhuộm tự nhiên. Người thợ sẽ sử dụng lõi cói đã qua xử lý và nhuộm để dệt thành từng sợi chiếu. Các sợi này sẽ được ghép lại để tạo thành một tấm chiếu hoàn chỉnh. Chiếu sau khi dệt xong sẽ được xử lý, cắt chỉnh hình dạng và trang trí thêm các hoa văn, họa tiết truyền thống.

Câu chuyện về các hộ dân trong làng Chiếu Cói An Xá thể hiện một phần không thể thiếu của văn hóa và truyền thống dân gian Việt Nam. Làng Chiếu Cói An Xá là một ví dụ điển hình về sự kết nối sâu sắc giữa con người và nghề truyền thống, góp phần tạo nên một hình ảnh tươi đẹp về cuộc sống nông thôn và tinh thần gìn giữ bản sắc văn hóa. Làng nghề này đã tồn tại suốt hàng thế kỷ, và qua mỗi thế hệ, nghề trồng và dệt chiếu cói đã được truyền đạt từ cha truyền cho con, từ ông nội truyền cho cháu. Gia đình ông Trần Hữu Nhân là một điển hình. Ông cho biết “Nghề truyền thống nên cha truyền con nối. Từ nhỏ tay tôi đã quen với tách cói, xe đay, phơi hong rồi đến dệt chiếu. Nay, những đứa con nhỏ của tôi đều có thể tham gia như bố nó, ông nó thuở ngày xưa…”.

Vào những thời gian nông nhàn, họ đã dành thời gian cho việc dệt chiếu cói, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của làng. Sự đoàn kết trong cộng đồng đã giúp làng An Xá luôn có thu nhập từ nghề dệt chiếu cói và là nguồn sống bền vững cho nhiều hộ dân trong làng. “Đấy! Bây chừ, cả làng 80 hộ làm nghề dệt chiếu cói, xêm xêm gần 200 lao động già, trẻ có công việc. Thu nhập dù ít nhưng đều đều bất kể trời nắng hay trời mưa”. Bà Võ Thị Thu, người làm nghề trồng và dệt chiếu cói ở An Xá hơn XX năm qua cho hay.

Tuy nhiên, trải qua hàng trăm năm biến động, làng An Xá đã từng trải qua những giai đoạn phát triển đỉnh cao. Tuy nhiên, ngày nay, ngành nghề làm chiếu cói – một phần không thể thiếu của văn hóa và truyền thống làng – đang phải đối mặt với sự cạnh tranh đáng kể từ sản phẩm công nghiệp hiện đại. Các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt với giá thành thấp hơn đã làm thu hẹp thị trường của chiếu cói thủ công, đặt người làng An Xá vào tình thế khó khăn.

Hơn nữa, làng An Xá hiện có 400 hộ dân, nhưng chỉ có 80 hộ vẫn duy trì nghề làm chiếu cói theo phương pháp thủ công. Điều đáng chú ý là 100% trong số họ vẫn sử dụng cách làm thủ công để sản xuất chiếu cói. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi nhiều công đoạn và lao động khổ nhọc. Việc trồng cói, bứt cói, chẻ, phơi hong và cuối cùng là dệt thủ công đều là những công việc tốn nhiều thời gian và công sức. Theo như người dân làng kể, thậm chí đã có sự hỗ trợ của một “thợ phụ,” một người có thể chỉ sản xuất được 3 tấm chiếu trong một ngày. Với giá thành của một tấm chiếu chỉ được tính bằng tiền công, người làm công việc này khó có thể đảm bảo cuộc sống ổn định. “Cả ngày chuẩn bị khung rồi dệt, một người quen tay với sự hỗ trợ của một “thợ phụ” thì mới cho được 3 tấm chiếu. Giá thành hiện nay một tấm chiếu bán được 60 ngàn đồng. Tính tới tính lui chỉ được tiền công“. Vừa mải miết bên khung cửi, bà Võ Thị Thu vừa chia sẻ.

Sự khó khăn trong việc duy trì nghề làm chiếu cói thủ công đã khiến nhiều người trong làng An Xá tìm kiếm các công việc khác có lợi nhuận tốt hơn. Đặc biệt, lớp trẻ thường chọn hướng đi làm ăn xa để kiếm vốn và buôn bán. Điều này đã dẫn đến việc làng có ít người trẻ hơn yêu thích và theo đuổi nghề làm chiếu cói thủ công của quê hương.

Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng nghề làm chiếu cói mang trong nó giá trị văn hóa và truyền thống quý báu. Để giải quyết những thách thức này, có thể cần sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính và quảng bá để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nghề làm chiếu cói thủ công. Hiểu được điều này và mong muốn thực hiện lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Trần Hữu Trung, một người cháu của Đại tướng, đã đứng ra điều hành một sáng kiến đổi mới bằng cách áp dụng công nghệ và máy móc trong quy trình sản xuất chiếu cói. Năm 2010, anh đã đầu tư vào máy dệt chiếu và máy may, tạo ra sản phẩm chiếu cói đa dạng về mẫu mã và chất lượng, từ đó đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Khởi đầu với những bước đi chập chững, HTX làng nghề chiếu cói An Xá dưới sự lãnh đạo của anh Trung đã tạo việc làm liên tục cho 7 – 15 lao động trong địa phương. Thu nhập từ 2 – 2,5 triệu đồng mỗi tháng đã giúp tạo điều kiện cuộc sống ổn định cho người lao động. Đồng thời, việc sản xuất chiếu cói công nghiệp với giá thành từ 60 đến 140 ngàn đồng mỗi chiếc đã tạo ra nguồn thu nhập mới cho làng.

Sự đổi mới không chỉ dừng lại ở việc sản xuất, mà còn bao gồm việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Đây là một bước quan trọng để thu hút sự quan tâm của thị trường. Tuy nhiên, để nghề làm chiếu cói thủ công tồn tại và phát triển bền vững, sự hỗ trợ từ chính quyền và các cơ quan chuyên ngành cũng là điều cần thiết. Họ có vai trò trong việc tạo môi trường thuận lợi cho làng nghề, từ xây dựng chương trình quảng bá, hỗ trợ tài chính, đến mở rộng thị trường đầu ra.

Như vậy, sự kết hợp giữa sáng tạo công nghệ, tâm huyết của người làm nghề và hỗ trợ từ cơ quan chính quyền có thể tạo nên một tương lai tươi sáng cho nghề làm chiếu cói thủ công tại làng An Xá. Điều này không chỉ đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nghề truyền thống mà còn góp phần bảo tồn và vinh danh di sản văn hóa của làng.

Làng nón lá Quy Hậu

Làng nghề nón lá Quy Hậu nằm cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 45km về hướng Bắc, thuộc thôn Quy Hậu, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Làng nón lá này đã tồn tại từ thế kỷ XX. Theo lời các cụ già trong làng kể lại, hai người đầu tiên mang nghề làm nón về Quy Hậu là ông Nguyễn Văn Dỵ (gọi là ông Bộ Chiêm) và ông Đỗ Bá Mỡn (gọi là ông thợ Giồ). Từ đó, nghề làm nón lá đã được truyền lại qua nhiều thế hệ và ngày càng phát triển.

Khám phá văn hóa dân gian ở Quảng Bình là một trải nghiệm thú vị khi đặt chân đến làng nghề nón lá Quy Hậu. Quy trình sản xuất nón lá Quy Hậu gồm các công đoạn chính như chọn lựa lá, tách lá, sấy khô, nhuộm màu và làm nón. Đầu tiên, người thợ sẽ chọn lựa những chiếc lá láng tươi non và không bị hư hỏng. Sau đó, lá láng sẽ được tách ra từng lớp mỏng và sấy khô để loại bỏ ẩm và làm mềm lá. Tiếp theo, lá láng sẽ được nhuộm màu để tạo ra những màu sắc đa dạng cho nón. Cuối cùng, người thợ sẽ ghép các lớp lá lại và thực hiện công đoạn làm nón, tạo ra những chiếc nón lá đẹp và chất lượng. Sản phẩm nón lá Quy Hậu được đánh giá cao về độ mỏng, nhẹ, và có họa tiết trang trí phong phú, mang tính chất đặc trưng của làng nghề.

Sản xuất nón là một hoạt động mang tính gia đình, gắn kết với từng hộ gia đình trong làng. Dù mưa hay nắng, ngày hay đêm, nghề làm nón luôn hoạt động sôi nổi. Mỗi gia đình thường có vai trò phân công công việc dựa trên sức lao động và kỹ năng của từng thành viên. Nam giới thường chẻ tre và vót tròn thành vành nón, trong khi phụ nữ thường xây vành, xây lá và chằm nón. Trẻ em thường phụ giúp cha mẹ những công việc nhẹ nhàng như tưới cây, quét dọn… để học cách tự lập và gắn kết với gia đình.

Mặc dù sản xuất riêng lẻ theo hộ gia đình, tại Quy Hậu, mối liên hệ và trao đổi kinh nghiệm giữa các gia đình đã tạo ra một môi trường cộng đồng sôi động. Các gia đình cùng ngõ thường tụ tập tại một nhà để làm việc, trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm. Những buổi làm việc tập trung cũng mở ra cơ hội cho những hoạt động văn hóa như hò khoan, hò tỏ tình, kể chuyện dân gian, thể hiện sự gắn kết và tình nghĩa trong cộng đồng. Tất cả những điều này đã tạo nên một môi trường làng quê đậm đà văn hóa, nơi tình thân tình bạn được xây dựng và duy trì. Sản phẩm nón lá Quy Hậu không chỉ đáp ứng nhu cầu trong cộng đồng mà còn được tiếp thị và bán ra ngoài. Người dân đem sản phẩm của mình đến các chợ làng và huyện: như chợ Hôm, chợ Tréo, chợ Động, chợ Mai, chợ Thùi…, và thậm chí cả những chợ xa hơn để bán. Khi bán không hết hàng, người dân lại tiếp tục gánh đi bán rong các làng, các huyện xa hơn. Bà Phạm Thị Khành, 74 tuổi (xóm 3) kể lại rằng: những năm 1959 – 1961 bà phải gánh nón đi bán dạo cách nhà hàng chục cây số ở các chợ thuộc huyện Quảng Ninh, có khi vào Vĩnh Linh (Quảng Trị), tối đâu thì nghỉ lại đó, khi nào bán hàng hết thì mới về, thậm chí có những khi phải mất mười ngày nửa tháng mới bán hết một gánh nón. Về sau, những người thu mua nón cũng xuất hiện, đưa sản phẩm này đi trao đổi ở các huyện và tỉnh lân cận, đóng góp vào việc thúc đẩy thương mại địa phương và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Tuy nhiên, mặc dù có truyền thống hơn trăm năm, số lượng hộ gia đình trực tiếp tham gia sản xuất nón lá tại Quy Hậu đã giảm xuống còn khoảng 700 hộ. Sự giảm sút này có thể liên quan đến sự thiếu hụt sự hứng thú của thế hệ trẻ với nghề truyền thống này. Thêm vào đó, tuy sản xuất hàng nghìn chiếc nón mỗi ngày, giá bán mỗi chiếc nón ở Quy Hậu vẫn ở mức thấp, từ 45 đến 60 nghìn đồng/chiếc. Khi trừ đi chi phí sản xuất, người thợ chỉ thu về một khoản lợi nhuận hạn chế, từ 20 đến 30 nghìn đồng/chiếc. Mức lợi nhuận này không đủ để đảm bảo đời sống ổn định cho người lao động.

Thị trường tiêu thụ cho nón Quy Hậu đang gặp khó khăn, đặc biệt tại các tỉnh và thành phía Nam. Sự giảm lượng thu mua và tình trạng “ế khách” tại một số nơi đã tạo ra áp lực lớn đối với người làm nón và các chủ thu mua. Chia sẻ về vấn đề tiêu thụ hàng hóa, anh Đỗ Văn Quyến, một chủ thu mua nón trên địa bàn tâm sự: “Cùng với một số chủ thu mua nón khác trên địa bàn thì số lượng nón tôi thu mua được chủ yếu xuất đi ở các tỉnh, thành phía Nam như Cần Thơ, TP HCM, An Giang. Thường thì 3 – 4 ngày sẽ nhập – xuất một lần. Tuy nhiên, những năm gần đây ở các tỉnh, thành này đang có xu hướng giảm số lượng thu mua vì lí do ế khách. Kinh doanh buôn bán cũng dựa trên nhu cầu thị trường nên mình cũng đành chấp nhận”.

Trước tình hình khó khăn của làng nón lá Quy Hậu và mục tiêu tìm hướng đi mới, ông Phạm Văn Linh, Chủ tịch UBND xã Liên Thủy, đã chia sẻ rằng trong quá khứ, địa phương đã thành lập “Hợp tác xã làng nghề nón lá Quy Hậu” nhằm thúc đẩy phát triển nghề làm nón. Tuy nhiên, sau 7 năm hoạt động, năm 2019, hợp tác xã đã phải giải thể do nhiều vấn đề không hiệu quả. Việc tìm nguồn vốn, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, xây dựng thương hiệu, và quảng bá sản phẩm đã đặt hợp tác xã vào tình trạng bế tắc.

Trong bối cảnh mất hướng và khó khăn về thị trường tiêu thụ, những người con của làng đã tự quyết định thay đổi để tìm kiếm hướng đi mới, từ đó tạo thêm thu nhập cho gia đình và làng. Bà Đỗ Thị Hà, nguyên Giám đốc của hợp tác xã nón lá Quy Hậu, cho biết rằng nhận thấy nhu cầu thị trường, họ đã thực hiện việc kết hợp nghề thêu với nón lá. Thay vì chỉ là những chiếc nón thông thường, họ đã thêu lên những bức tranh phong cảnh, chữ viết, tạo thêm giá trị cho sản phẩm. Nhờ vào việc này, mỗi chiếc nón đã có giá trị tăng lên, từ khoảng 60 nghìn đồng lên khoảng 200 nghìn đồng. Điều này đã gấp đôi thu nhập cho người thợ làm nón trong làng. Sự thay đổi này không chỉ tạo ra cơ hội tăng thu nhập mà còn thể hiện sự sáng tạo, khả năng thích nghi với thị trường và làm cho sản phẩm trở nên độc đáo và hấp dẫn hơn. Hướng đi mới này đang tạo ra một bước đột phá trong việc phát triển nghề làm nón lá Quy Hậu và mở ra cơ hội phát triển bền vững cho làng nghề này.

Nghề làm nón lá Quy Hậu là nơi mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân trong làng, góp phần quan trọng vào nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống và gìn giữ văn hóa của họ. Người dân trong làng đã tận dụng tài năng và kỹ năng truyền thống để sản xuất và kinh doanh nón lá. Điều này làm cho làng nón lá Quy Hậu trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn tìm hiểu về nghề truyền thống làm nón lá và thực sự thấu hiểu văn hóa đặc trưng của người dân khi đi du lịch Quảng Bình.

Làng nón Thổ Ngọa

Trong vùng Bắc Trung bộ, hầu như ai cũng biết đến câu thành ngữ “Nón đẹp Ba Đồn, gái xinh Đức Thọ”. Một phần của sự nổi tiếng của câu thành ngữ này xuất phát từ cách nó thường được nói một cách hài hước, gây tò mò cho người nghe, từ đó dễ dàng thâm nhập vào cuộc sống dân gian. Tuy nhiên, cốt lõi chính của câu thành ngữ này là một lời ca tụng và so sánh về nét đẹp của người con gái ở vùng hạ lưu Sông La (Đức Thọ, Hà Tĩnh) và tính mảnh mai, kiên trì của nón lá ở hạ nguồn Sông Gianh, Ba Đồn. Hiện nay, nón lá ở Ba Đồn được làm chủ yếu ở làng nón Thổ Ngọa – làng nghề có lịch sử lâu đời và được hình thành từ khoảng 551 năm trước. Làng nằm tại phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Nếu muốn ghé thăm và mua những chiếc nón về làm quà, du khách có thể di chuyển 43km từ trung tâm thành phố Đồng Hới.

Dựa trên những câu chuyện được bậc cao niên trong làng truyền lại, nghề làm nón ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Ông tổ của làng nghề, một người họ Trần, vì thiếu nguồn kế sinh nhai tại làng, đã quyết tâm học nghề làm nón lá tại Huế. Sau khi trở thành chuyên gia trong nghề, ông quyết định trở về làng và chia sẻ kiến thức cho những người dân tại đây. Với nguồn nguyên liệu phong phú và sẵn có trong địa phương, nghề làm nón nhanh chóng thu hút nhiều người dân trong làng tham gia. Nghề làm nón mang lại cơ hội sống cho nhiều người, và sản phẩm nón Ba Đồn trở thành món “của ăn của để” được nhiều người ưa chuộng mua.

Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, thương hiệu nón Ba Đồn trở nên nổi tiếng từ Nam ra Bắc. Tại làng Thổ Ngọa, hầu hết các hộ gia đình đều có người tham gia sản xuất nón. Nhiều hộ thậm chí huy động 100% dân số gia đình để tham gia vào nghề làm nón. Công việc chẻ tre để tạo ra 16 vành nón thường do đàn ông đảm nhận, trong khi phụ nữ và trẻ em tham gia vào quá trình xây dựng và may nón. Từ những đôi bàn tay khéo léo của những người dân làng Thổ Ngọa, thương hiệu nón Ba Đồn đã vươn xa, nổi tiếng khắp nơi do những thương lái mang đi. Thậm chí, tại thủ đô Hà Nội, đã có câu thơ:

“Nón Thổ Ngọa đưa ra Hà Nội
Nón bài thơ tốt lắm anh ơi
Anh về mua một vài đôi
Chiếc tặng bạn gái, chiếc thời mẹ cha…”.

Quy trình sản xuất nón lá tại mỗi làng nghề Quảng Bình có những khác biệt nhất định. Trong làng nón lá Thổ Ngọa, Quảng Thuận, Ba Đồn, quy trình làm chiếc nón lá đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ và kinh nghiệm khéo léo của người thợ nghề. Việc này bắt đầu bằng việc chọn lá lá phải non vừa độ, gân lá phải màu xanh, và màu lá phải trắng xanh. Một chiếc nón tiêu chuẩn phải có màu trắng xanh với gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ, mặt lá phải bóng và nổi lên những vân xanh đều đẹp mắt. Để đạt được tiêu chuẩn này, quá trình làm nón phải tuân thủ đúng quy trình, bao gồm việc sấy khô lá bằng than củi khoảng một đêm. Trong quá trình này, không sử dụng than đá, điện sấy hoặc phơi nắng, để đảm bảo màu sắc và độ bóng của lá.

Còn loại nón được làm từ lá dừa, nó cũng được tạo ra trên một khuôn mẫu hình nón. Tuy nhiên, loại này được bố trí với 1 lớp lá trên 16 vành, sử dụng chất liệu từ tre nứa vót tròn. Quá trình xếp lá phải được thực hiện cẩn thận, đảm bảo từng chiếc lá được xếp khít nhau để khi chiếc nón được giơ lên dưới ánh nắng, không có chỗ nào thưa hoặc dày hơn. Các bước trong quá trình làm nón đều mang trong đó tình cảm gia đình, mỗi thành viên trong gia đình đảm nhận một phần công việc. Nghề làm nón không chỉ giúp duy trì cuộc sống mà còn đóng góp vào việc ăn học và phát triển tài năng cho nhiều người trong làng. Bà Thanh Thủy, người từng sống ở phường Bắc Lý, Đồng Hới và là một người con của làng Thổ Ngọa, chia sẻ rằng hơn 10 năm trước, bà vẫn thường xuyên trở về quê mua nguyên liệu để làm nón dù đã có một công việc ổn định ở thành phố. Việc này không chỉ mang lại thêm thu nhập để trang trải cuộc sống, mà còn giữ cho bà gắn bó với nghề làm nón và duy trì sự truyền thống của làng. Do đó, dù các con của bà sinh ra và lớn lên ở thành phố, họ cũng biết cách làm nón từ khi còn nhỏ, thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa họ và nghề truyền thống của làng.

Người dân trong làng thường làm việc trong các gia đình sản xuất nón lá hoặc tham gia làm công nhân trong các xưởng sản xuất nón lá. Nghề làm nón lá tại các làng nghề truyền thống Quảng Bình mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân trong làng và góp phần vào phát triển kinh tế địa phương. Đồng thời, nghề làm nón lá cũng góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người dân Thổ Ngọa.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nghề làm nón lá tại làng Thổ Ngọa đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, khi sản phẩm nón lá không còn được ưa chuộng trên các thị trường cả trong và ngoài tỉnh. Theo ông Trần Đình Lập, Trưởng làng Thổ Ngọa, hiện chỉ còn khoảng 30-40% hộ gia đình tham gia vào nghề làm nón, đa phần là phụ nữ trung tuổi và cao tuổi trong các gia đình. Tình hình này dự kiến sẽ còn tiếp tục giảm do nghề làm nón đang đối mặt với nhiều thách thức.

Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là sự phát triển của cuộc sống hiện đại, khi người dân có nhiều cơ hội tiếp cận với các lĩnh vực kinh tế khác như thương mại, dịch vụ mang lại hiệu suất kinh tế cao hơn. Điều này đã làm mất dần sự hấp dẫn và tầm quan trọng của nghề truyền thống. Ngoài ra, những gia đình vẫn đang gắn bó với nghề cũng đối mặt với nhiều khó khăn do chi phí nguyên liệu khá đắt đỏ. Giá bán sản phẩm nón lá chỉ khoảng 30-40 nghìn đồng/chiếc, trong khi sau khi trừ chi phí, người thợ chỉ còn được khoảng 10-20 nghìn đồng/chiếc. Thời gian sản xuất 1 chiếc nón là tầm 3 giờ đồng hồ trở lên. Cộng thêm việc chợ Họa – nơi trước đây là trung tâm buôn bán nón, giờ đây chỉ còn một vài phiên và không còn sự sầm uất như trước.

Tuy nhiên, dù đối mặt với những khó khăn, nghề làm nón lá Thổ Ngọa Quảng Thuận Ba Đồn vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển theo hướng tự phát trong cộng đồng. Giá sản phẩm nón vẫn dao động không đều theo từng phiên chợ. Để tạo ra những sản phẩm nón lá đẹp mắt và hấp dẫn, những người làm nón lá tại Thổ Ngọa đã áp dụng sự đổi mới bằng việc thêm công đoạn thêu ren trên nón. Bằng việc sử dụng cuộn len đủ màu sắc, các nghệ nhân tạo ra những hoa văn tinh tế và ấn tượng được thêu thủ công bằng tay lên bề mặt nón. Thay vì chỉ là sản phẩm truyền thống, những chiếc nón thêu ren này đã tạo nên giá trị thêm, thu hút đông đảo du khách và khách hàng mua làm quà tặng.

Ông Đào Minh Thọ, Chủ tịch UBND thị xã Ba Đồn, cũng đã chia sẻ rằng thị xã đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm quảng bá thương hiệu nón lá địa phương và mở rộng cơ hội đầu ra ổn định cho sản phẩm. Đồng thời, các chính sách khuyến khích và hỗ trợ được triển khai để khích lệ người dân tiếp tục bám truyền thống và gìn giữ nghề làm nón lá, góp phần vào sự phát triển bền vững của làng nghề và địa phương.

Làng nghề rèn đúc Mai Hồng

Làng nghề rèn đúc Mai Hồng thuộc thôn 8 xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch đã tồn tại từ lâu đời. Mặc dù không có thông tin về thời gian làng nghề này được khai sinh, tuy nhiên, các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy nghề đúc đồng xuất hiện từ thời kỳ Đông Sơn (khoảng thế kỷ thứ 4 TCN) và phát triển mạnh mẽ trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, theo ghi chép trong tập Lịch sử Đảng bộ xã Đồng Trạch (Tập 1), vào năm 1959, trong phong trào hợp tác hóa của huyện Bố Trạch, ngoài việc thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, mua bán và tín dụng tại xã Đồng Trạch, nghề mộc, đúc rèn và một số nghề thủ công khác cũng đã được hợp tác hóa. Tại xã này, do có nhiều cư dân làm thợ rèn và lửa luôn sáng cả ngày, xóm này đã được đặt tên là “Hợp tác xã Mai Hồng”.

Làng nghề rèn đúc Mai Hồng đã có một hành trình phát triển đầy biến đổi và thú vị. Làng đã từng bước thích nghi với những thay đổi trong mô hình hoạt động. Ban đầu, hợp tác xã (HTX) ra đời đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ làm việc cá thể, thay bằng phương thức làm việc tập thể dựa trên công điểm và lịch làm việc được ghi chép trên bảng tin. Hình thức này đã ghi điểm với sự ưu việt và hiệu quả, thúc đẩy sự nhiệt huyết và đam mê của cả làng nghề. Những năm từ 1990 trở đi, HTX Mai Hồng đã liên tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc quản lý sản xuất và tìm kiếm thị trường. Các sản phẩm đúc rèn như cuốc, xẻng, lưỡi cày, nồi đúc, kiềng… không chỉ được tiêu thụ trong tỉnh mà còn mở rộng sang các tỉnh lân cận.

Tuy nhiên, mô hình quản lý giao khoán sản phẩm đã dần trở nên không còn phù hợp trong bối cảnh thị trường ngày càng cạnh tranh. Từ năm 2003, HTX đã điều chỉnh hướng phát triển bằng cách thúc đẩy mô hình sản xuất kinh tế hộ, trong đó từng gia đình tự quản lý thu chi và lợi nhuận. Năm 2008, Mai Hồng được công nhận là làng nghề đúc rèn truyền thống, mở ra cơ hội mới cho làng nghề. Các thợ đúc rèn đã áp dụng kiến thức khoa học vào quá trình sản xuất, áp dụng công nghệ để nâng cao năng suất lao động. Từ việc sản xuất các sản phẩm đồ nông nghiệp, làng đã đa dạng hóa sản phẩm để phù hợp với nhu cầu thị trường.

Với sự linh hoạt trong việc thích nghi và kết hợp giữa truyền thống và công nghệ, làng nghề Mai Hồng đã vượt qua những thách thức và tiếp tục phát triển. Các sản phẩm đúc rèn như đinh đóng tàu, chân vịt, bu long, ốc vít chì câu mực, de, khay đựng mực… đã không chỉ đáp ứng nhu cầu ngư nghiệp mà còn dần mở rộ ra nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Sự kết hợp giữa kỹ thuật truyền thống và tiến bộ công nghệ đã giúp Mai Hồng duy trì và thậm chí tăng cường khả năng cạnh tranh.

Tính đến hiện tại, làng nghề Mai Hồng vẫn duy trì sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Sự đa dạng trong sản phẩm đã giúp làng nghề thích nghi linh hoạt với nhu cầu thị trường và đáp ứng đa dạng các lĩnh vực. Hiện có tới 80% sản phẩm của làng nghề phục vụ cho ngư nghiệp, và 20% còn lại dành cho nông nghiệp và đồ gia dụng. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong cách làm việc của làng nghề và khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của ngư dân và nông dân. Trong thôn 8 của xã Đồng Trạch, một phần quan trọng của làng nghề Mai Hồng, có tổng cộng 162 hộ dân. Trong đó, hơn 80 hộ dành thời gian chuyên môn để tham gia vào ngành nghề rèn đúc và cơ khí hóa. Trong số này, có 17 hộ hoạt động với quy mô lớn, có từ 4 đến 12 công nhân làm việc thường xuyên. Đáng chú ý, Công ty Thái Châu Minh có quy mô lớn nhất và thu hút trên 20 công nhân làm việc đều đặn.

Thu nhập bình quân của các thợ chính trong làng nghề Mai Hồng đạt khoảng 500 nghìn đồng/ngày, trong khi thu nhập của những thợ phụ là khoảng 200 nghìn đồng/ngày. Điều này cho thấy nghề đúc rèn và cơ khí hóa đã mang lại nguồn thu nhập ổn định cho các hộ gia đình tham gia, đóng góp vào cải thiện đời sống và phát triển của cả cộng đồng làng nghề Mai Hồng.

Làng nghề rèn đúc Mai Hồng tạo ra cơ hội việc làm cho nhiều người dân trong khu vực. Các nghệ nhân đúc đồng và thợ rèn đúc tại các làng nghề truyền thống Quảng Bình có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất. Đời sống của người dân trong làng nghề này chủ yếu dựa vào các hoạt động liên quan đến nghề rèn đúc. Họ truyền thống nghề cho con cháu và gắn bó với nghề truyền thống qua nhiều thế hệ.

Làng nghề đan lát mây tre Thọ Đơn

Làng nghề đan lát mây tre Thọ Đơn đã tồn tại gần 400 năm và nằm tại phường Quảng Thọ, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Nghề đan lát mây tre được truyền lại qua nhiều thế hệ trong gia đình, và từ thuở xưa, mỗi gia đình trong làng đều đan lát để bán kiếm thu nhập. Quy trình sản xuất mây tre đan trong làng nghề Thọ Đơn bao gồm các bước chọn lựa nguyên liệu mây tre, xử lý nguyên liệu và đan lát. Nguyên liệu mây tre được lấy từ thiên nhiên, sau đó được xử lý bằng các phương pháp như ngâm, tẩm màu và sấy khô. Sau khi nguyên liệu đã sẵn sàng, các nghệ nhân sẽ bắt đầu đan lát mây tre thành các sản phẩm như giỏ, hộp, túi xách và đồ trang trí khác. Mỗi sản phẩm đan từ làng nghề Thọ Đơn mang đến sự tự nhiên, mẫu mã đa dạng và có độ bền cao.

Hiện tại, ngôi làng này có khoảng 600 hộ dân đang hoạt động trong ngành đan lát, tạo ra những sản phẩm độc đáo và hữu ích. Đặc trưng chính của làng là sự sáng tạo và khéo léo trong việc tạo ra các sản phẩm từ nguyên liệu tre.

Các sản phẩm chủ yếu mà làng đan lát Thọ Đơn tạo ra bao gồm rổ rá, nong, nia với đủ kích cỡ phục vụ cả sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp và trong xây dựng. Mặc dù đơn giản về kiểu dáng và nguyên liệu, nhưng những sản phẩm này lại mang trong mình giá trị thực tiễn và tiềm năng phát triển lớn.

Mỗi lao động trong ngành đan lát Thọ Đơn có thu nhập ổn định, đa phần dao động từ trên dưới 1 triệu đồng mỗi tháng nếu chỉ làm các sản phẩm cơ bản như rổ, rá, nong, nia. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình đã khéo léo khai thác giỏi nghề này để vươn lên tránh đói nghèo, và cả việc nuôi dạy con cái trong điều kiện tốt hơn. Hiện nay, nắm bắt nhu cầu thị trường, người dân làng nghề đã tích cực cải tiến chất lượng, mẫu mã phù hợp với thị hiếu và nhu cầu sử dụng của khách hàng. Dựa vào tiềm năng kinh doanh của ngành đan lát, làng Thọ Đơn đã thể hiện rõ vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cao và cải thiện cuộc sống cho người dân địa phương. Sự thành công của làng đan lát Thọ Đơn có nguồn gốc từ việc tận dụng những đặc điểm thuận lợi. Nguyên liệu chính là tre có sẵn trong vùng nông thôn, từ đó dễ dàng tìm mua và sử dụng. Kỹ thuật đan lát tương đối đơn giản và phù hợp với mọi lứa tuổi cũng như điều kiện thời tiết, đó cũng chính là lý do tại sao hơn 90% hộ dân trong làng tham gia vào nghề này. Sự đa dạng về người tham gia và sự đồng lòng trong việc phát triển ngành đan lát là tiền đề quan trọng cho sự bền vững và phát triển hiệu quả hơn trong tương lai.

Bà Đoàn Thị Vần, một người dân gắn bó với nghề đang sinh sống tại phường Quảng Thọ cho biết, vài năm trở lại đây gia đình bà đã chuyển sang làm sản phẩm theo đơn đặt hàng của các nhà hàng, quán ăn trên địa bàn. “Mỗi ngày, vợ chồng tôi đan được khoảng 20 cái mẹt đựng thức ăn để bán cho các quán hàng, mỗi chiếc thành phẩm có giá 10.000 đồng, làm được bao nhiêu, gom lại người ta sẽ đến thu mua tận nhà.

Làng nghề đan lát Thọ Đơn đã có những bước phát triển đáng mừng và tiềm năng triển vọng rất lớn trong tương lai. Sự phấn đấu và sáng tạo của cộng đồng dân làng đã giúp làng nghề này tỏa sáng và tạo ra những sản phẩm độc đáo có giá trị vượt ra ngoài biên giới địa phương. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững của làng nghề, cần phải đối mặt và vượt qua một số khó khăn và thách thức.

Một dấu hiệu tích cực cho thấy triển vọng của làng nghề Thọ Đơn là việc hàng trăm ngàn sản phẩm của làng đã tìm đến thị trường và tiêu thụ rộng rãi, đặc biệt trong các vụ mùa cà phê và hồ tiêu tại Tây Nguyên. Sự ưa chuộng này không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho người dân làng mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong khu vực. Sự độc đáo và chất lượng của sản phẩm đã thu hút sự chú ý của khách du lịch nước ngoài, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ đến các thành phố như Huế, Đà Nẵng, Hội An và Buôn Ma Thuột. Thành công của làng nghề đã thu hút một phần ngư dân nước ngoài, như ngư dân Thái Lan, tạo cơ hội hợp tác và giao lưu trong việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Sự đổi mới trong việc sản xuất cũng như hợp tác giúp tạo ra những khả năng phát triển mới cho làng Thọ Đơn.

Tuy nhiên, để đảm bảo triển vọng bền vững cho làng nghề, cần phải đối mặt với những thách thức. Một trong những thách thức quan trọng là vấn đề nguyên liệu. Việc tìm kiếm nguyên liệu tre dồi dào đã trở nên khó khăn hơn, và việc phải mua nguyên liệu từ các làng, huyện khác đã đẩy giá nguyên liệu tăng lên. Hơn nữa, việc quảng bá sản phẩm và tìm kiếm thị trường tiêu thụ cũng đòi hỏi nỗ lực và tài chính đáng kể.

Có thể thấy, nghề đan lát mây tre Thọ Đơn đã mang lại thu nhập cho người dân, đóng vai trò quan trọng trong đời sống và văn hóa của họ. Người dân trong làng làm việc từng gia đình, trong đó mỗi thành viên đều tham gia vào quá trình đan lát mây tre để tạo ra sản phẩm. Thu nhập từ nghề đan lát mây tre giúp người dân Thọ Đơn trang trải cuộc sống và duy trì nghề truyền thống. Vì vậy, nếu có dịp đến thăm các làng nghề ở Quảng Bình, bạn đừng quên chọn mua một vài sản phẩm thủ công để góp phần nâng cao thu nhập cho người dân nơi đây nhé!

Các sản phẩm thủ công được đan lát từ mây tre.
Các sản phẩm thủ công được đan lát từ mây tre.

Làng bánh tráng Tân An

Làng bánh tráng Tân An có lịch sử hình thành và phát triển từ hơn 100 năm trước, thuộc xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch, nằm cách thị xã Ba Đồn khoảng 4km. Tân An là một địa điểm du lịch truyền thống hấp dẫn với khung cảnh thanh bình và sản phẩm bánh tráng thơm ngon, giòn rụm. Bánh tráng Tân An có 2 loại là bánh để nướng mè đen/mè đỏ, dùng ăn với nộm, hến xúc bánh tráng… hoặc loại bánh “mè xát” màu trắng để làm các loại cuốn rau như gỏi cuốn ở Miền Nam hoặc bánh không mè để làm ram (chả giò).

Quy trình sản xuất bánh tráng trong làng nghề Tân An bắt đầu từ việc chuẩn bị nguyên liệu và chế biến gia vị. Nguyên liệu chính là bột gạo và nước. Bột gạo sau khi được xay mịn và trộn đều với nước sẽ tạo thành hỗn hợp để làm bánh. Sau đó, hỗn hợp gạo sẽ được đổ lên mặt nồi nung nóng để tạo thành những tấm bánh mỏng. Quá trình nướng bánh diễn ra nhanh chóng và yêu cầu sự khéo léo của người thợ. Sản phẩm cuối cùng là những tấm bánh tráng mỏng, mịn và màu sắc hấp dẫn. Khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi, từng con đường nhỏ, ngõ xóm, và những góc sân nhà ở làng đều rực rỡ những tấm bánh tráng cong tròn, tỏa sáng dưới ánh nắng.

Làng bánh tráng Tân An vừa là nơi sản xuất những chiếc bánh tráng thơm ngon, vừa mang lại công ăn việc làm cho người dân trong làng. Nghề làm bánh tráng đã trở thành nguồn sống chính và tạo thu nhập ổn định cho nhiều hộ gia đình. Đời sống của người dân trong làng nghề Quảng Bình này phần lớn gắn bó với công việc sản xuất bánh tráng. Ngày nay, làng bánh tráng Tân An đã có nhiều cơ sở sản xuất hiện đại, nhưng vẫn giữ được những nét truyền thống trong cách làm bánh. Bánh tráng Tân An đã trở thành một món quà quê ý nghĩa, được nhiều người dân Quảng Bình và du khách mua về làm quà cho gia đình và bạn bè.

Nghề làm bánh tráng ở làng Tân An còn là một trách nhiệm với thương hiệu của làng. Trong số gần 320 hộ dân tại làng, hơn 200 hộ tham gia vào nghề sản xuất bánh tráng, không chỉ để đảm bảo nguồn cơm manh áo cho gia đình mình mà còn để góp phần xây dựng và duy trì thương hiệu “bánh tráng Tân An”. Một số cơ sở sản xuất bánh tráng đã được chứng nhận là sản phẩm OCOP và được phân phối rộng rãi tại các chợ, siêu thị và nhà hàng.

Mặc dù làng bánh tráng Tân An đã góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nuôi dưỡng nhiều thế hệ, tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức mà người dân trong làng phải đối mặt. Trong một ngôi nhà nhỏ bên con ngõ dọc theo sông Gianh, ông Mai Xuân Dũng (73 tuổi) chia sẻ về những thách thức mà gia đình ông phải vượt qua trong nghề làm bánh truyền thống. Gia đình ông đã kế thừa nghề từ các thế hệ cha ông, nhưng hiện tại thu nhập từ nghề này không cao. Trước đây, họ phải làm bánh bằng tay, mất rất nhiều thời gian và công sức. Vào năm 2010, ông Dũng quyết định đầu tư hơn 40 triệu đồng để mua một cái máy làm bánh mè xát từ tỉnh Thái Bình. Điều này giúp gia đình ông tiếp tục duy trì nghề làm bánh và cải thiện thu nhập. Tuy nhiên, mặc dù làm bánh tráng Tân An được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, sản phẩm vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu. Thị trường tiêu thụ cũng không ổn định, khiến thu nhập từ nghề này còn khá bấp bênh.

Chị Ngô Thị Tư (45 tuổi) cũng chia sẻ về những khó khăn trong việc duy trì nghề làm bún và bánh ướt truyền thống tại làng Tân An. Gia đình chị đã đầu tư hơn 300 triệu đồng để mua máy móc và trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất. Mặc dù hàng ngày họ làm được gần 1 tấn sản phẩm và thu lãi hơn 1 triệu đồng sau khi trừ chi phí, nhưng một trong những thách thức lớn nhất mà họ đối mặt là nguồn nước sạch. Gia đình phải mua nước hàng ngày để phục vụ sản xuất, tạo ra chi phí không nhỏ và ảnh hưởng đến lợi nhuận.

Thêm vào đó, làm nghề làm bánh tráng Tân An không chỉ phụ thuộc vào kỹ thuật và sự khéo léo của người thợ, mà còn phải trông chờ vào các yếu tố tự nhiên như thời tiết và điều kiện môi trường. Vào những ngày mưa gió, việc phơi bánh bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để giải quyết tình hình này, cả làng phải tìm cách sấy bánh bằng than để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bằng cách này, chất lượng của bánh không thể được đảm bảo như khi phơi dưới ánh nắng tự nhiên. Tình hình này dẫn đến việc bị thương lái ép giá và khiến người làm bánh gặp nhiều khó khăn.

May mắn thay, dịp Tết Nguyên đán đến, làng bánh tráng Tân An trở nên sôi động hơn bao giờ hết, khi nhu cầu tăng cao đem lại thu nhập quan trọng cho cả làng nghề. Từ tháng 10 âm lịch, các cơ sở sản xuất bánh tráng trong làng bắt đầu hoạt động hết công suất để đáp ứng nhu cầu thị trường Tết. Trong làng có hơn 260 hộ gia đình sản xuất bánh, và mỗi năm họ tiêu thụ hơn 300 tấn gạo để sản xuất bánh tráng. Dù bánh tráng được làm quanh năm, nhưng vào mùa Tết, nhu cầu mua sẽ tăng mạnh, làm tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba so với những ngày bình thường. Một số cơ sở trong làng cảm nhận tình trạng “cháy hàng” khi không đủ hàng để cung ứng cho người tiêu dùng.

Người dân trong làng Tân An, thôn Tân An, xã Quảng Thanh, Quảng Trạch, đang làm việc chăm chỉ để sản xuất bánh tráng trong thời gian này. Các hộ gia đình tận dụng tối đa nhân lực, làm việc từ sáng sớm đến tối khuya để đảm bảo cung ứng đủ hàng cho các đơn hàng cuối năm. Như bà Phan Thị Cẩm Tú, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) cho biết, trong kỳ vọng vụ Tết, HTX đã huy động hơn 100 lao động để làm việc trên những máy sản xuất. Các lao động từ mọi lứa tuổi và địa vị trong xã hội đều tham gia vào quá trình sản xuất bánh. Các công đoạn được phân công cho mỗi người, từ người già đến trẻ con và thanh niên trai tráng, tạo nên một môi trường làm việc đa dạng.

Dịp Tết không chỉ là cơ hội để làng nghề tăng thu nhập mà còn giúp tạo ra nhiều việc làm thêm cho người dân. Đặc biệt, những gia đình như bà Phan Thị Cẩm Tú có hơn 10 lao động đang làm việc hết công suất. Dịp Tết, khối lượng công việc nhiều, cơ sở tạo thêm công việc, thu nhập cho người lao động, mang lại cái Tết ấm no hơn. Được biết, bánh tráng của gia đình bà đã được công nhận thương hiệu OCOP. “Thường ngày, chúng tôi phải dậy từ 4 giờ sáng để bắt đầu làm việc, mỗi ngày cơ sở sản xuất được 3 mẻ bánh với khoảng từ 6.000 – 7.000 chiếc bánh. Giá thành mỗi bánh rơi vào từ 2.000 – 3.000 đồng. Chúng tôi làm quần quật suốt ngày nhưng vẫn không đủ để giao cho thương lái đến thu mua” – bà Tú chia sẻ.

Làng nghề nước mắm Cảnh Dương

Làng nghề nước mắm Cảnh Dương nằm ở xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới hơn 60km. Làng nghề nước mắm Cảnh Dương có một lịch sử lâu đời và được hình thành từ hàng trăm năm trước. Đây là một trong những làng cổ có tên gọi “Bát danh hương”, tức là 8 làng cổ nổi tiếng có văn hóa đặc trưng. Làng nghề truyền thống Quảng Bình này nằm kề dòng sông Roòn, tạo nên một bức tranh yên bình và thơ mộng.

Ở xã Cảnh Dương, nếu theo lịch sử hình thành làng xã đã đề cập đến ở trên thì năm 1643 xã Cảnh Dương được hình thành. Trong khi đó, “Đời Cảnh Trị, Lê Huyền Tông (1633-1671), làng ta đã chịu thuế mắm Hàm Hương… năm canh Tuất (1671) phải nạp 400 chĩnh. Năm Giáp Tuất (1764) thuế mắm Hàm Hương 400 chĩnh”, cho thấy nước mắm Cảnh Dương (Hàm Hương) đã trở thành một thương hiệu được cả nước biết đến ngay từ ngày đầu của lịch sử khai khẩn làng xã nơi đây.

Nước mắm Hàm Hương, đặc sản độc đáo của làng Cảnh Dương, xuất phát từ loài cá quý hiếm có tên gọi là cá Hàm Hương hay còn được biết đến như Long Chính ngư. Đây là loại cá nhỏ màu hồng trong suốt, chỉ xuất hiện ở vùng biển cửa sông Roòn trong vài tháng hàng năm. Quá trình chế biến nước mắm từ loại cá này yêu cầu sự tinh tế và kỹ thuật cao, chỉ những người có kinh nghiệm thạo mới có thể tạo ra món nước mắm thơm ngon, đậm đà và hấp dẫn. Quy trình chế biến nước mắm tại Cảnh Dương được tuân theo các bước nghiêm ngặt và kỹ lưỡng. Muối dùng để ướp cá phải là loại có hạt to, đều, không chứa tạp chất. Sau đó, muối được đặt vào các chum, hũ rồi đưa vào kho cất giữ trong khoảng hai đến ba năm. Điều này giúp tạo ra loại muối cá đặc biệt, không gây đắng chát, tạo nên hương vị thơm ngon cho nước mắm. Nước mắm được dùng để chế biến nhiều món ăn ngon, như: bún chả cá, bún riêu cua, bún mắm, thịt kho mắm,… Nước mắm Cảnh Dương cũng là một món quà biếu ý nghĩa cho bạn bè và người thân khi ghé thăm các làng nghề ở Quảng Bình. Ngoài ra, du khách đến đây có thể tham quan các cơ sở sản xuất nước mắm, khám phá văn hóa dân gian ở Quảng Bình, tìm hiểu quy trình sản xuất nước mắm và thưởng thức nước mắm ngon của làng nghề.

Tuy nhiên, như nhiều ngành nghề thủ công truyền thống khác, nghề làm nước mắm ở xã Cảnh Dương đang đối diện với nguy cơ suy thoái, thương hiệu nước mắm Hàm Hương trên thị trường dường như đang mất đi vị thế. Điều này có thể có một số nguyên nhân. Thứ nhất, nghề sản xuất nước mắm tại Cảnh Dương chủ yếu thực hiện bởi các hộ gia đình nhỏ, tự cung tự cấp, thiếu quy mô lớn. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh với các thương hiệu nước mắm lớn hơn, có khả năng sản xuất và quảng cáo mạnh mẽ hơn. Thị trường hiện nay có sự xuất hiện của nhiều thương hiệu nước mắm sản xuất công nghiệp với mức giá phải chăng, mẫu mã đa dạng và chiến dịch quảng cáo mạnh mẽ. Sự im lặng của các làng thủ công truyền thống như Cảnh Dương tạo lợi thế cho các đối thủ cạnh tranh.

Thêm vào đó, thu nhập từ biển gần đây không ổn định, tập trung vào một số gia đình có thuyền lớn. Nhiều người trẻ Cảnh Dương đã từ bỏ nghề biển để đi làm ở các thành phố lớn, gây sự gián đoạn trong việc truyền dạy kỹ thuật sản xuất nước mắm truyền thống. Những khó khăn này đặt ra thách thức cho sự tồn tại và phát triển của nghề làm nước mắm tại làng Cảnh Dương, đòi hỏi sự quan tâm và hỗ trợ để bảo tồn và phát triển làng nghề này trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Làng nghề Nước mắm Bảo Ninh

Nước mắm Bảo Ninh có lịch sử lâu đời và được hình thành từ hàng năm trước. Quá trình hình thành của làng nghề này chủ yếu được truyền từ đời này sang đời khác và là công việc truyền thống của người dân trong khu vực. Sản phẩm được coi là đệ nhất nước mắm biển và là một trong những nghề truyền thống có từ hàng ngàn năm trước của cư dân xã Bảo Ninh, nơi cách thành phố Đồng Hới chỉ 6km. Do đó, nếu đang du lịch thành phố Đồng Hới, du khách có thể kết hợp ghé thăm làng nghề nước mắm Bảo Ninh.

Quy trình sản xuất nước mắm Bảo Ninh bắt đầu bằng việc lựa chọn cá nục mu tươi ngon, là loại cá nước mặn có hàm lượng muối cao. Sau đó, cá được rửa sạch và tiến hành ủ muối trong thùng gỗ trong một khoảng thời gian từ 8 đến 12 tháng. Quá trình ủ muối giúp cá thấm đều muối, tạo ra hương vị đặc trưng cho nước mắm. Sau khi ủ xong, cá được lấy ra và lọc qua một quá trình chậm rãi để tách lấy nước mắm từ thịt cá. Cuối cùng, nước mắm được đóng chai hoặc đựng trong hũ thủy tinh để bảo quản và tiêu thụ.

Sản phẩm nước mắm Bảo Ninh được đánh giá có hương vị đặc trưng, mặn mòi và tươi ngon. Đặc biệt, nước mắm Bảo Ninh nổi tiếng với hương vị biển quê hương, mang đậm nét văn hóa và bản sắc dân tộc của Quảng Bình. Sản phẩm này có sự khác biệt về chất lượng và hương vị so với các loại nước mắm khác, đóng góp vào sự phong phú và đa dạng của ẩm thực Việt Nam. Bạn có thể mua nước mắm Bảo Ninh trực tiếp tại làng nghề sản xuất hoặc dễ dàng tìm thấy tại các siêu thị hoặc cửa hàng đặc sản tại Quảng Bình.

Tuy nhiên, nghề sản xuất nước mắm truyền thống tại làng Bảo Ninh đã trải qua nhiều thăng trầm, với những khó khăn và thách thức đầy biến động. Một trong những khó khăn lớn mà làng nước mắm Bảo Ninh từng đối mặt là sự cố ô nhiễm môi trường biển vào năm 2016. Sự cố này đã khiến nhiều cơ sở sản xuất nước mắm lớn nhỏ phải đóng cửa do sợ hại đến chất lượng sản phẩm. Tuy biển sau đó đã phục hồi và sản lượng đánh bắt hải sản ổn định, nhưng tác động của sự cố ô nhiễm vẫn kéo dài và gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng. Công đồng tin rằng để sản xuất một lít nước mắm Bảo Ninh, cần ít nhất tám tháng đến một năm để nước mắm có chất lượng tốt. Do đó, việc tái tạo và duy trì chất lượng nước mắm Bảo Ninh trở nên khá khó khăn và mất thời gian.

Chỉ trong vòng hai năm gần đây, nước mắm Bảo Ninh mới dần lấy lại vị thế của mình trên thị trường, bước vào giai đoạn phục hồi sau sự cố ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, các thách thức vẫn còn hiện hữu. Ngoài tác động của sự cố ô nhiễm, người làm nước mắm Bảo Ninh còn đối mặt với sự phân biệt trong các quy định liên quan đến tiêu chuẩn sản xuất nước mắm. Các quy định trong bản dự thảo về tiêu chuẩn “Quy phạm thực hành sản xuất nước mắm” đã gây nhiều tranh cãi với người làm nước mắm tại Bảo Ninh.

Dù với những khó khăn và thách thức, làng nước mắm Bảo Ninh vẫn kiên nhẫn duy trì và phát triển nghề làm nước mắm truyền thống. Hiện tại, trên địa bàn xã Bảo Ninh chỉ còn khoảng 100 hộ sản xuất nước mắm nhỏ lẻ. Mặc dù số lượng cơ sở sản xuất nước mắm đã giảm, nhưng vẫn có những địa chỉ nổi tiếng như cơ sở sản xuất nước mắm Thương Định và cơ sở chế biến hải sản Long Tám, tiếp tục giữ vững tên tuổi của làng nước mắm Bảo Ninh.

Người dân đan lát mây tre tại làng nghề Thọ Đơn (Ba Đồn, Quảng Bình).
Người dân đan lát mây tre tại làng nghề Thọ Đơn (Ba Đồn, Quảng Bình).

Các làng nghề truyền thống ở Quảng Bình đã có từ lâu đời và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ đẹp về mẫu mã mà còn có chất lượng cao. Đây là những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa của Quảng Bình và được nhiều du khách yêu thích. Nếu có dịp khám phá Quảng Bình, bạn đừng quên ghé thăm làng nghề truyền thống để tìm hiểu về văn hóa và con người nơi đây. Bạn cũng có thể mua những sản phẩm của các làng nghề về làm quà cho gia đình và bạn bè.

Quangbinh.travel

About Author

Trang web quangbinh.travel được tạo bởi một nhóm các tác giả có chuyên môn cao trong lĩnh vực du lịch. Nội dung của trang web được tạo ra dựa trên những trải nghiệm thực tế của các tác giả, tham khảo các nguồn thông tin uy tín, và được cập nhật thường xuyên. Mục đích của trang web là cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về du lịch Quảng Bình.

You may also like

Blue Diamond Camp
Tin tức

Du lịch MICE và những thông tin bạn cần biết

Du lịch MICE tập trung vào việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm và sự kiện, mang
Cung đường trekking Tú Làn độc đáo và thú vị dành cho các gia đình và trẻ nhỏ.
Tin tức

Sự phát triển của Wellness Tourism: Tại sao ngày càng nhiều người chọn kỳ nghỉ lành mạnh?

Ngày nay, sự quan tâm đến sức khỏe và cân bằng cuộc sống ngày càng trở nên quan trọng hơn